Ấn Quang Đại Sư là ai ?
Ấn Quang Đại Sư (1861-1940), hiệu là Thánh Lượng, tự Thường Tàm, là một bậc cao tăng lỗi lạc dưới thời nhà Minh và đầu triều Trung Hoa Dân Quốc. Ngài được coi là Tổ thứ 13 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc và là cao tăng có công lao to lớn đối với sự nghiệp khai dương Phật giáo ở Trung Quốc đầu thế kỉ 20.
Công đức của Ấn Quang Đại Sư:
- Có công lao to lớn đối với việc hiển dương Tôn giáo ở Trung Quốc đầu thế kỉ 20.
- Viết nhiều sách Có giá trị, đã phiên dịch ra nhiều ngôn ngữ.
- Cổ suý việc tu tập Tịnh Độ Tông, giúp đỡ vô số Phật tử cầu sanh Tây phương.
- Là tấm gương sáng ngời cho các cháu Thiếu nhi noi theo.
Ngày nay, Ấn Quang Đại Sư được coi là một trong những đạo sư có tác động mạnh mẽ nhất đối với Phật tử Trung Quốc trên toàn cầu.
Thập Tam Tổ Ấn Quang Đại Sư là gì ?
Tranh Thập Tam Tổ Ấn Quang Đại Sư là bức tranh vẽ chân dung của Tổ Ấn Quang, vị Tổ thứ 13 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc. Bức tranh chứa đựng nhiều nội dung sâu xa, bày tỏ sự kính trọng và biết ơn đến bậc Tổ đã có công lao to lớn đối với sự nghiệp hiển dương Giáo pháp, cụ thể là pháp môn Phật giáo.
Tiểu sử Ấn Quang Đại Sư
Ấn Quang Đại Sư sinh ra ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Ngài xuất gia từ bé và theo học ở nhiều danh pháp. Sau vài năm tu luyện, ngài trở thành một bậc thầy uyên bác về Phật học. Ấn Quang Đại Sư là người Đã có sự cống hiến lớn lao đối với Phật giáo Trung Quốc. Ấn Quang Đại Sư đã viết hơn 100 sách về Phật giáo trong đó có Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh Độ Tông Cổ Đức Chân Ngôn và Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao. Ấn Quang Đại Sư đã viết Hoằng dương Tịnh Độ Tông và khích lệ mọi người tu tập niệm Phật. Ấn Quang Đại Sư đã thành lập nhiều tu viện và xây dựng nhiều tự viện.
Nét đặc trưng trong tư tưởng Tịnh độ của Ấn Quang Đại sư đầu tiên là sự dung hợp Nho giáo và Phật giáo
Xuất thân gốc từ Nho giáo, Ấn Quang Đại sư đem đến cho tư tưởng Phật giáo một nét đặc sắc độc đáo: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai tư tưởng Á Đông. Ngài coi trọng lấy luân thường đạo lý làm căn bản, lấy việc niệm Phật cầu sanh làm mục đích hướng về, dìu dắt con người đến sự an lạc nơi nội tâm và thoát ly khỏi sinh tử luân hồi.
Ấn Quang Đại sư không những hiểu biết sâu sắc về triết học Phật giáo mà cả Nho giáo, am hiểu “đức, trí, ngôn, dũng; nhân, lễ, trị, bình”, Trung Dung, Bát đức. .. Học thuyết “hộ quốc cứu dân” của Ngài áp dụng sâu rộng, đóng góp quan trọng cho sự hưng thịnh của Phật giáo và xã hội. Ngòi bút của Ngài tài hoa, tinh tế, sáng tạo thành những kiệt tác nghệ thuật bất hủ với thời đại.
Với cái nhìn rộng mở cùng lòng từ bi, Ấn Quang Đại sư đã kiên quyết phủ nhận quan niệm sai lầm coi Phật pháp là điều vô ích, là một cách né tránh nhân gian. Ngài nhấn mạnh: “Tôi không thấy có loại bệnh nào trên cõi đời này mà không có Phật pháp có thể chữa trị khỏi được cho chúng sinh hết”. Phật pháp cũng là chìa khoá đưa chúng ta về với an lạc thật sự, giúp hoá giải khổ đau, oán kết và hướng về sự giải thoát.
Tịnh độ: “Dung hòa Nho giáo và Phật giáo, dùng Nho giáo để giải thích Phật giáo” của Ấn Quang Đại sư
Ấn Quang Đại sư, vị giáo chủ Của thế hệ thứ 13, đã khôn khéo lồng ghép học thuyết Nho giáo về đạo đức, sự hiếu thảo vào các buổi thuyết giảng Giáo lý của mình. Ngài sử dụng “tính”, “tập”, “thiên lý” cùng “nhân dục” (những quan niệm căn bản trong Nho giáo) nhằm lý giải cho sự tu dưỡng trong Phật giáo. Nhờ thế, Nho giáo cùng Phật giáo không những dung hoà về phương diện tác dụng mà còn “kế tục dĩ vãng, mở mang tương lai, dung hoà đất trời thành một thể, nhằm giữ gìn đại pháp cho thiên hạ mai sau”.
Phật giáo luôn hướng về sự an lạc, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Do đó, Phật giáo coi đời sống thế tục, bao gồm vợ chồng là nguồn gốc đưa đến nỗi khổ đau. Quan điểm trên đối lập với Nho giáo luôn coi trọng chữ hiếu, đặt sự tôn kính cha mẹ làm gốc.
Tuy nhiên, sau khi truyền sang Trung Quốc, Phật giáo đã ý thức rõ sự cần thiết phải thay đổi nhằm thích nghi với phong tục bản địa. “Kinh Hiếu Tử” ra đời với quan điểm “Chăm lo phụng dưỡng cha mẹ, không bằng khuyên nhủ cha mẹ tu hạnh lành từ bỏ việc dữ”, dung hoà hai quan điểm tưởng chừng trái ngược. Nhờ vậy, Tôn giáo ngày càng được công nhận và phát triển rộng rãi ở Trung Quốc.
Nét đặc trưng thứ hai của Ấn Quang Đại sư là tôn trọng và hoàn toàn tin vào tha lực
Nói đến bản chất của tinh thần Phật giáo, đặc điểm thứ hai của Ấn Quang Đại sư, chính là tôn kính và hoàn toàn tin tưởng nơi Phật lực. Nơi đâu sư cũng khẳng định: “Phục hồi lại bản chất sẵn có “;” Chúng ta nhất định đều phải thành tâm hành trì “; “Chỉ có pháp môn niệm Phật, dựa theo nguyện lực tiếp thọ của Phật, còn chính mình phải chân thành nương nơi nguyện lực mà niệm Phật, cho dù có được chứng ngộ hay không, hay những phiền não lậu hoặc chưa thể đoạn được hoàn toàn, cũng chỉ có thể nương nhờ lực từ bi của Phật, sẽ được vãng sinh về thế giới Tây phương ngay tại kiếp này. Một khi được vãng sinh, nhất định sẽ được khai ngộ và được giải thoát lên thượng phẩm. Người nào đoạn được lậu hoặc, thời cũng được vào bực Bồ Tát “.(4)
Nói một cách tổng quát, Mật giáo tu trì không nhờ vào văn tự, mà lại hoàn toàn căn cứ trên lòng tin tưởng nơi nguyện lực của Phật Vô lượng giới. Chỉ có nguyện lực của Phật, mới có thể giúp người ra khỏi cảnh phiền não, vãng sanh Tây phương Tịnh độ. Dù là lòng loạn không yên, phiền não chưa thể đoạn tận, Ngài cũng có thể mau chóng thành Phật.
Tóm lại, Ấn Quang Đại sư cũng là một Thư sinh, xuất gia làm tăng sĩ Phật giáo, dùng Nho giáo mà giảng giải về Phật giáo; sư dụng đạo Nho học Phật giáo, sùng bái tha lực, hiển dương pháp môn Phật giáo. Ấn Quang Đại sư là một người độc nhất trong lịch sử Phật giáo Tây Tạng, cũng như trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Hơn nữa, sư cũng là một tu sĩ Phật tại gia, chấp hành nghiêm túc pháp luật, có đạo đức và năng lực tu luyện. Ấn Quang Đại sư đã hành cước khắp ba tỉnh miền đông, từ Trường Bạch Sơn đến Hắc Long Giang chỉ với một ba lô trên chuyến hành trình dài hạn của sư. Ngoài một kho tàng bên người thì sư không có tài sản gì khác và chuyên tâm hành trì pháp môn Phật giáo, chứ không bỏ sức lực cho sự hành trì bất cứ pháp môn nào khác. Trong phong trào quyên góp của cải tự viện phục vụ sự nghiệp chấn hưng Phật giáo, Ấn Quang Đại sư với chư vị tăng sĩ, Phật tử đã thay nhau giảng pháp. Sư trực tiếp đến kinh thành thỉnh cầu, đóng góp rất nhiều trong công cuộc chấn hưng của Phật giáo lúc bấy giờ. Các đệ tử của Ấn Quang Đại sư, cũng như giới nghiên cứu Phật pháp, thường gọi ông là “Tổ thứ 13 của tông Tịnh độ, cũng không phải là hoàn toàn không có căn cứ.
Ý nghĩa tranh Thập Tam Tổ Ấn Quang Đại Sư
Bức Thập Tam Tổ Ấn Quang Đại Sư giúp bày tỏ sự kính trọng và biết ơn của các Phật tử đến Tổ Ấn Quang. Ngài là vị Tổ đã có công lao to lớn đối với việc hiển dương Phật pháp, đặc biệt là pháp môn Tịnh Độ. Ngài đã lưu lại nhiều ấn phẩm quý giá, đóng góp quan trọng vào việc Hoằng dương Phật pháp sau này.
- 1. Nhắc nhở về lời dạy của Tổ Ấn Quang:
Bức tranh Ấn Quang Đại Sư là lời cảnh tỉnh người Đọc đối với lời khuyên của Tổ Ấn Quang. Ngài thường khuyên răn mọi người hãy noi theo Chánh đạo, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngài cũng đề cao tầm quan trọng của sự giữ giới, tu hành và một lòng nhân từ.
- 2. Nguồn cảm hứng tu tập:
Bức tranh Ấn Quang Đại Sư là niềm khích lệ đối với các Phật tử trên con bước đường tu tập. Nhìn vào hình tượng của Tổ Ấn Quang, các Phật tử được khuyến khích phải tinh tiến tu hành, noi theo gương sáng của Tổ.
- 3. Mang lại bình an và may mắn:
Bức tranh Ấn Quang Đại Sư được tin là đem tới tài lộc và phú quý cho gia chủ. Người Ta còn đặt tranh Thập Tam Tổ Ấn Quang Đại Sư trong phòng nhằm mong muốn được Ngài gia trì, bảo hộ.