Lục Tổ Huệ Năng là ai ?
Lục Tổ Huệ Năng (638-713) là vị Tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Quốc được coi là một trong những vị Tổ vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Huệ Năng sinh ra trong một gia đình nghèo khó tại Tân Châu, Quảng Đông, Trung Quốc. Cha chết sớm, mẹ phải làm việc quần quật để nuôi con. Huệ Năng không biết chữ nhưng vẫn có tinh thần say mê học tập và vô cùng thông minh.
Một ngày kia, Huệ Năng gặp được người tụng kinh Kim Cang, bèn giác ngộ và xin xuất gia đi tu. Ngài về chùa Hoàng Mai để tham thiền với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Ngũ Tổ nhận thấy Huệ Năng là người có tâm đại ngộ bèn trao y bát cùng giáo pháp cho ngài.
Sau khi đạt được pháp ấn, Huệ Năng đã lẩn trốn sự truy sát của các học trò khác của Ngũ Tổ. Ngài trở lại Quảng Châu và sống tại đấy trong 15 năm. Sau đó, Huệ Năng tiếp tục giảng dạy Phật giáo tại phương Nam. Pháp lý của ngài đơn giản, dễ thực hành, thích hợp với mọi thành phần nhân dân.
Huệ Năng được coi là vị Tổ có công đầu đối với sự phát triển Phật giáo tại Trung Quốc. Ngài đã để lại nhiều kinh sách quý báu, trong đó có Kinh Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn. Giáo lý của Huệ Năng có tác động sâu rộng đối với Phật giáo Trung Quốc cùng các dân tộc Đông Á.
Bài kệ của Lục tổ Huệ Năng
Bồ-đề cũng không người
Gương tốt cũng không đài.
Xưa nay không một người
Nơi đâu vướng phiền não?
Bài kệ trình bày những điều cốt yếu trong giáo lý Phật, bao gồm:
- Bồ-đề cũng không cây: Đây là biểu trưng cho sự giác ngộ. Bài kệ khẳng định sự giác ngộ không phải là một cái gì ở bên ngoài, nó sẵn có bên trong mỗi một chúng sinh.
- Gương sáng cũng không cây: Gương chính là biểu trưng cho trí tuệ. Bài kệ khẳng định rằng trí tuệ không phải là một cái gì quá lớn lao, nó sẵn có ngay nơi mỗi một chúng sinh.
- Xưa nay không một pháp: Bài kệ khẳng định rằng hết thảy mọi hiện tượng vốn vô thường, không có tính thật tánh.
- Nơi đâu vấy bẩn ?: Bài kệ khẳng định rằng nếu chúng sinh chú tâm quan sát tất cả hiện tượng thì sẽ không còn phiền não chi phối.
Bài kệ này cũng là một sự khẳng định đối với nguyên tính của vạn vật. Mọi hiện tượng vốn vô thường, không có bản chất thật tính. Khi chúng sinh đạt đến điểm cuối cùng, họ sẽ có được sự giác ngộ.